Sự trở lại của căn bệnh bị “lãng quên”
Chỉ trong tháng 8 vừa qua, Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Bạch Mai) đã tiếp nhận 12 ca mắc whitmore (hay còn gọi là bệnh melioidosis), trong đó có bốn trường hợp tử vong, nâng tổng số ca mắc bệnh này phải nhập viện từ đầu năm 2019 lên 20 người. Ngoài ra, tại một số bệnh viện cũng rải rác tiếp nhận điều trị cho người mắc bệnh whitmore. Whitmore là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây nên, có tỷ lệ gây chết người cao nếu người bệnh không được chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời. Do số lượng người mắc tăng cao so với những năm trước và bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, các cơ quan chuyên môn đã đưa ra cảnh báo nguy cơ quay trở lại của căn bệnh đã được phát hiện từ những năm 50 của thế kỷ trước và xếp vào bệnh truyền nhiễm nguy hiểm bị “lãng quên”.
Whitmore gây tổn thương nhiều cơ quan từ da đến phổi, thận, gan… nhất là đối với những người mắc các bệnh phổi, tim, thận mãn tính thì bệnh dễ làm suy đa tạng, sốc và dẫn tới tử vong. Đáng chú ý, khi điều trị, các bác sĩ phải chỉ định kháng sinh liều cao kết hợp hội chẩn liên chuyên khoa. Thế nhưng thực tế hiện nay, nhiều bác sĩ, nhất là bác sĩ ở tuyến dưới chẩn đoán nhầm là bệnh nhiễm trùng huyết do tụ cầu hay lao phổi... Do vậy, theo các chuyên gia đầu ngành về căn bệnh này thì ở thời điểm hiện tại, với những người bệnh có biểu hiện sốt nhiễm trùng nhưng áp xe nhiều nơi, người bị gan, thận, tiểu đường… phải nghĩ đến whitmore để điều trị đúng cách. Mặt khác, các cơ quan chuyên môn cần tập huấn cho các nhà vi sinh ở các tuyến vì họ chưa chẩn đoán xác định được loại vi khuẩn gây bệnh.
Mặc dù không gây thành dịch, không lây từ người sang người, chưa có vắc-xin và phương pháp phòng bệnh đặc hiệu, các chuyên gia đã khuyến cáo người dân biện pháp dự phòng cơ bản nhất vẫn là che chắn tốt đường hô hấp trong môi trường khói bụi; tăng cường hơn nữa các phương tiện bảo hộ lao động đối với những người làm việc, tiếp xúc nhiều với môi trường đất và nước, cũng như trong sinh hoạt, nếu có trầy xước ngoài da cần điều trị sớm và triệt để sẽ tránh được nguy cơ vi khuẩn trong đất xâm nhập cơ thể qua các vết thương. Ngoài ra, khi phát hiện thấy có những dấu hiệu như sốt cao, mệt mỏi, nổi mụn mủ bất thường… cần nhanh chóng đến cơ sở y tế chuyên khoa để được thăm khám, xét nghiệm. (Nhân dân, trang 5)
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-2692019
Chính phủ đặt mục tiêu trên 90% người dân tham gia BHYT vào năm 2020
Chính phủ vừa có báo cáo gửi Quốc hội về việc đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật BHYT, tiến tới BHYT toàn dân theo tinh thần Nghị quyết số 68/2013/QH13 của Quốc hội. Chính phủ đã đạt được nhiều kết quả tích cực; đồng thời đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, toàn quốc có trên 90% người dân tham gia BHYT.
Theo báo cáo của Chính phủ, tính đến hết năm 2018, toàn quốc có trên 83,5 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 88,5% dân số, vượt chỉ tiêu Thủ tướng giao tại Quyết định số 1167/QĐ-TTg là 3,3%; vượt chỉ tiêu Nghị quyết số 68/2013/QH13 giao (đến năm 2020 đạt ít nhất 80% dân số tham gia BHYT). Đặc biệt, trong số đối tượng tham BHYT, người tham gia theo hộ gia đình là 15,7 triệu người, tăng gần 1 triệu người so với năm 2017.
Năm 2019, ước tính, toàn quốc có khoảng 85 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 89,8% dân số, vượt chỉ tiêu Thủ tướng giao tại Quyết định số 1167/QĐ-TTg là 1,7%; vượt chỉ tiêu Nghị quyết số 68/2013/QH13 giao.
Năm 2020, Chính phủ đặt mục tiêu có trên 90% dân số tham gia BHYT. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ xác định rõ nhiệm vụ: Tập trung phát triển BHYT; triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng KCB BHYT, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh. Tăng cường ứng dụng CNTT, kết nối dữ liệu trong quản lý KCB và thanh toán chi phí KCB BHYT, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia và hưởng đầy đủ quyền lợi BHYT; đổi mới cơ chế tài chính và phương thức thanh toán trong lĩnh vực BHYT.
Đồng thời Chính phủ kiến nghị đối với Quốc hội đưa nội dung ưu tiên đầu tư cho các trạm y tế xã vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn vào Nghị quyết về kinh tế xã hội, dự toán ngân sách năm 2020, Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021 - 2025 để các tỉnh ưu tiên ngân sách địa phương, các nguồn tăng thu đầu tư cho các trạm y tế xã. Xem xét cân đối đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 cho Chương trình đầu tư phát triển mạng lưới y tế cơ sở vùng khó khăn vay vốn ADB, cho Dự án Đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế cơ sở vay vốn WB để có thể thực hiện ngay trong năm 2020 và các năm tiếp theo.
Đề nghị Quốc hội chỉ đạo các địa phương: Triển khai các giải pháp để thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu tỷ lệ dân số tham gia BHYT đã được Thủ tướng giao; bảo đảm ngân sách mua thẻ BHYT cho các đối tượng được nhà nước hỗ trợ 100%, ưu tiên bố trí ngân sách để hỗ trợ hộ gia đình cận nghèo, hộ có thu nhập trung bình tham gia BHYT; thúc đẩy bao phủ BHYT với học sinh, sinh viên; bố trí nguồn ngân sách địa phương thực hiện chi trả các chính sách an sinh xã hội, ưu tiên đầu tư cho các trạm y tế xã và tăng cường cơ sở vật chất của lĩnh vực y tế.
Đối với các cơ quan của Quốc hội: Tăng cường giám sát việc tuân thủ, thực hiện chính sách pháp luật về KCB và BHYT, quan tâm đến địa phương có tỷ lệ bao phủ BHYT thấp.
Các đoàn đại biểu Quốc hội, các Đại biểu Quốc hội cần tăng cường giám sát việc thực hiện các chính sách nhằm mở rộng bao phủ BHYT, đầu tư của ngân sách nhà nước cho y tế; đề nghị các địa phương tăng cường đầu tư ngân sách cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về KCB và BHYT, nhất là đầu tư cho trạm y tế xã ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. (Sức khỏe & Đời sống, trang 7).
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-3092019
Bộ trưởng Bộ Y tế tham dự phiên họp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
Từ ngày 23-26/9/2019, PGS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến - Bộ trưởng Bộ Y tế, Trưởng ban Bảo vệ chăm sóc sức khoẻ Trung ương dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự phiên họp toàn thể cuộc họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân tại New York (Mỹ), đồng thời thăm và làm việc tại Đại học Harvard.
Cùng xây dựng một thế giới khỏe mạnh hơn
Ngày 23/9/2019, tại trụ sở LHQ ở New York, Mỹ, Bộ trưởng Bộ Y tế, Trưởng ban Bảo vệ chăm sóc sức khoẻ Trung ương, PGS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến dự phiên họp toàn thể Cuộc họp Đại hội đồng LHQ về bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân (UHC). Với chủ đề "Cùng xây dựng một thế giới khỏe mạnh hơn", Hội nghị đã thu hút sự tham dự của nhiều nguyên thủ quốc gia, nhiều nhà hoạch định chính sách cũng như nhiều lãnh đạo cấp cao trong lĩnh vực y tế của các nước.
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã có bài phát biểu tại Hội nghị, trong đó nêu rõ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc củng cố hệ thống y tế cơ sở để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu tốt hơn cho người dân, đảm bảo để người dân được thụ hưởng các chương trình chăm sóc sức khỏe do ngân sách nhà nước và bảo hiểm y tế chi trả. Hệ thống y tế cơ sở được thiết lập từ Trung ương đến địa phương với hơn 11.000 trạm y tế xã. Hầu hết các trạm y tế xã đều có bác sĩ, y tá, nữ hộ sinh, cán bộ y học cổ truyền và hoạt động dựa trên nguyên lý y học gia đình.
Theo báo cáo giám sát tình hình chăm sóc sức khỏe toàn dân năm 2017 do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Ngân hàng Thế giới (WB) tiến hành, chỉ số bao phủ dịch vụ y tế của Việt Nam đạt 73/100 điểm, có thể coi là khá cao so với mức chung trong vùng Đông Nam Á là 59/100 và toàn cầu là 64/100. Chương trình bảo hiểm y tế hiện đạt 90% dân số tham gia bảo hiểm và chính phủ trợ cấp 100% phí bảo hiểm y tế cho những đối tượng dễ bị tổn thương, người có hoàn cảnh khó khăn và trợ cấp 70% cho người nghèo..
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết, nhận thức được tầm quan trọng của quy trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, Việt Nam đã thực hiện 10 chính sách cải tổ ngành Y tế Việt Nam nhằm củng cố hiệu quả của hệ thống y tế, nhất là cải thiện khả năng chuyên môn của hệ thống y tế cơ sở để có thể chăm sóc sức khỏe cho cả người ốm và người khỏe mạnh. Tuy nhiên hiện nay khó khăn lớn nhất đối với ngành Y tế Việt Nam là tìm ra cơ chế tài chính phù hợp đối với công tác chăm sóc sức khỏe toàn dân ở tuyến cơ sở, bởi hiện các nguồn lực vẫn tập trung vào các dịch vụ chữa bệnh là chủ yếu trong khi ngân sách dành cho các dịch vụ y tế cơ sở và y tế phòng ngừa còn rất hạn chế.
Việt Nam phấn đấu để mọi người dân đều có thể tiếp cận với các dịch vụ y tế
Bên lề cuộc họp, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cùng các đại biểu từ Diễn đàn kinh thế thế giới và Đại học Harvard đồng tổ chức cuộc họp về đầu tư và kết hợp công tư trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu nhằm đạt được các mục tiêu thiên niên kỷ vào năm 2030,
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết, Việt Nam đã đạt những thành quả ấn tượng về sức khỏe cho người dân. Việt Nam hoàn thành gần như tất cả các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và đang trên con đường tiến tới đạt các Mục tiêu Phát triển Bền vững. Chính phủ Việt Nam ưu tiên và đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, giúp Việt Nam đạt được các thành tựu phát triển kinh tế xã hội đáng kể, đưa Việt Nam lên thành nước có thu nhập trung bình thấp.
Hiện Việt Nam đã áp dụng hầu hết các kỹ thuật y tế hiện đại nhất hiện nay, các phác đồ mới phù hợp cho chữa lao, lao kháng thuốc với cách tiếp cận rất sáng tạo. Chiến lược 2X (Xquang cho sàng lọc và Xpert cho khẳng định chẩn đoán) đã có lộ trình triển khai và kế hoạch chuyển đổi sử dụng toàn bộ kỹ thuật sinh học phân tử như Xpert thay thế cho kính hiển vi đã nằm trong kế hoạch của Việt Nam.
Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết, nghiên cứu của Việt Nam cho thấy, trong thời gian 4 năm, việc phát hiện chủ động bằng Xpert có thể làm giảm bệnh lao đến 46% so với cách làm thường quy hiện nay. Từ kết quả nghiên cứu, Chương trình chống lao quốc gia đã triển khai chiến lược "2X" (Xquang -Xpert) vào phát hiện chủ động đạt hiệu quả cao gấp 7 lần so với phát hiện thụ động hiện nay. Kết quả này đã truyền cảm hứng cho cộng đồng chống lao toàn thế giới. Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam một lần nữa khẳng định cam kết trước cộng đồng quốc tế trong việc chấm dứt bệnh lao tại Việt Nam năm 2030.
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã có các cuộc gặp song phương với Bộ trưởng Y tế Đan Mạch và Bộ trưởng Y tế Ireland về hợp tác y tế song phương. (Gia đình & Xã hội, trang 2)
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-2692019
Tăng hiệu quả của tuyến dưới
Mô hình bệnh tật thay đổi, nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng tăng nhưng năng lực y tế tuyến dưới chưa đáp ứng kịp thời, dẫn đến quá tải ở tuyến trên. Điều đó đòi hỏi những giải pháp, nâng cao năng lực, chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư trang thiết bị, mô hình tổ chức... để giúp tuyến dưới hoạt động hiệu quả hơn.
Mạng lưới y tế cơ sở đang tồn tại nhiều khó khăn, bất cập cần được tháo gỡ. Trong đó, khó khăn lớn nhất là mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động, cơ chế chính sách và phát triển nguồn nhân lực. Đóng vai trò “người gác cổng” nhưng phần lớn trạm y tế tuyến xã mới chỉ làm được công tác y tế dự phòng, chưa thực hiện đầy đủ chức năng của tuyến cơ sở. Ngoài ra, trình độ nhân viên trạm y tế còn hạn chế, danh mục thuốc, kỹ thuật ít... khiến người dân chưa thật sự tin tưởng đến trạm y tế khi ốm đau và thường vượt tuyến trên để khám, chữa bệnh... Hệ thống y tế tại các vùng khó khăn thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt yếu kém về nhân lực làm cho năng lực chăm sóc sức khỏe ban đầu hạn chế. Một số nghiên cứu cho thấy trang thiết bị y tế tại các bệnh viện huyện (theo danh mục đã được Bộ Y tế ban hành) nhiều nơi mới đạt từ 30 đến 50%, thậm chí có huyện chỉ đạt 20%; trình độ của nhân lực y tế chưa đủ để khai thác hết các tính năng trang thiết bị hiện có. Trong khi đó, các bệnh không lây nhiễm (tăng huyết áp, đái tháo đường, thừa cân, béo phì) và tai nạn thương tích nằm trong số những bệnh gia tăng nhanh chóng và dần trở thành phổ biến trong cộng đồng. Việc chẩn đoán, điều trị, quản lý các bệnh không lây nhiễm, bệnh mãn tính, chấn thương lại vượt quá năng lực của cán bộ trạm y tế xã.
Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu có hiệu quả cần bảo đảm các yếu tố: tính toàn diện (từ tuyên truyền giáo dục sức khỏe đến cung cấp các dịch vụ phòng bệnh, điều trị, phục hồi chức năng, khám sức khỏe định kỳ và quản lý sức khỏe); tính lồng ghép (trong cung ứng dịch vụ y tế giữa các thầy thuốc của y tế cơ sở và giữa các tuyến điều trị); tính liên tục (có sự trao đổi thông tin giữa người bệnh và thầy thuốc, sự tiếp tục theo dõi điều trị sau khi được ra viện ở tuyến trên).
Nhằm nâng cao năng lực hệ thống y tế tuyến dưới, với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới và Liên hiệp châu Âu, Bộ Y tế triển khai dự án Giáo dục và Đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế (HPET). Dự án tập trung vào các hoạt động: Cải thiện chất lượng giáo dục nhân lực y tế bậc đại học, cao đẳng thông qua đổi mới tiếp cận dạy và học dựa trên năng lực và cải thiện hệ thống; nâng cao năng lực quản lý y tế và quản lý, sử dụng nhân lực y tế; nâng cao hiệu quả hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu thông qua đào tạo, bổ sung các điều kiện và năng lực cần thiết, đồng bộ cho đội ngũ cán bộ huyện và xã. Đến nay, sau 5 năm triển khai, hầu hết các trường đại học, cao đẳng đã hoàn thiện các mô-đun tích hợp, lồng ghép dựa trên năng lực cho sinh viên năm thứ nhất và đã chính thức đưa vào giảng dạy chương trình mới từ năm 2018. Giảng viên các trường được nâng cao năng lực giảng dạy, tạo ra năng lực thực hành nghề nghiệp; chương trình đào tạo lồng ghép, bảo đảm năng lực thực hành nghề nghiệp của đội ngũ nhân lực sau khi ra trường… Đây được coi là một cuộc cách mạng trong đào tạo nhân lực y tế tại Việt Nam.
Do chất lượng đội ngũ tuyến dưới còn nhiều hạn chế cho nên dự án tập trung đào tạo, bổ sung các điều kiện và năng lực cần thiết. Các chương trình đào tạo được xây dựng dựa trên việc đánh giá nhu cầu thực tế, lấp khoảng trống trong kiến thức, thái độ và kỹ năng thực hành lâm sàng cho các cán bộ tuyến xã với cách tiếp cận theo nguyên lý y học gia đình (chăm sóc toàn diện, liên tục), hướng tới dự phòng cho cộng đồng. Năm chương trình đào tạo liên tục theo nguyên lý y học gia đình cho các đối tượng đang công tác tại trạm y tế xã (bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng, hộ sinh, cán bộ dược) đã được áp dụng. Theo đánh giá ban đầu, kiến thức và kỹ năng thực hành nghề nghiệp không những được tăng lên mà thái độ, hành vi trong công tác và ứng xử với người bệnh và sự phối hợp giữa các thành viên trong đội chăm sóc sức khỏe ban đầu tại trạm y tế xã cũng tăng lên rõ rệt.
Một giải pháp được Bộ Y tế triển khai đem lại hiệu quả thiết thực là dự án “Thí điểm bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo)”. Hàng chục khóa bác sĩ chuyên khoa cấp một liên tục được tổ chức tại các trường đại học: Y Hà Nội, Y dược Huế, Y dược Hải Phòng cho gần 400 bác sĩ, thuộc 11 chuyên khoa (Nội, Ngoại, Sản, Nhi, Hồi sức cấp cứu, Gây mê hồi sức, Xét nghiệm, Chẩn đoán hình ảnh, Y học cổ truyền, Truyền nhiễm và Răng hàm mặt). Chương trình đào tạo dành riêng cho các bác sĩ này được thực hiện liên tục trong 24 tháng, theo hướng “cầm tay chỉ việc” chú trọng thực hành tay nghề (chiếm 70% đơn vị học trình). Kết thúc khóa học, có sự kiểm soát chặt chẽ kết quả đầu ra, bảo đảm có thể “độc lập tác chiến” ở vùng sâu, vùng xa, thực hiện tốt các kỹ thuật khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế tuyến huyện. Theo khảo sát, đánh giá, bác sĩ sau khi tốt nghiệp lên các huyện vùng cao công tác đang phát huy rất tốt, có người thực hiện được 50 thậm chí 70 kỹ thuật, đảm nhận 50% đến 60% công việc chuyên môn. Đồng thời chuyển giao kỹ thuật và tham gia tập huấn, truyền đạt kiến thức, kỹ năng cho đồng nghiệp tại nơi về công tác, qua đó nhiều người bệnh được cứu sống hoặc không phải chuyển tuyến. (Nhân dân, trang 5)
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-2692019
Sàng lọc trước sinh và sơ sinh: “Chìa khóa” nâng cao chất lượng dân số
Dị tật bẩm sinh là một trong những bất thường hay gặp ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Sàng lọc trước sinh và sơ sinh được coi là biện pháp hữu hiệu phát hiện dị tật, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dân số.
Tăng cơ hội phát hiện dị tật bẩm sinh
Qua các xét nghiệm chẩn đoán sàng lọc trước sinh triển khai từ đầu năm 2019 đến nay, Bệnh viện Đa khoa Medlatec đã phát hiện khoảng 50 trường hợp mắc hội chứng down - bất thường về nhiễm sắc thể số 21, gây chậm phát triển nặng về trí tuệ. Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Bá Sơn, Trung tâm Xét nghiệm, Bệnh viện Đa khoa Medlatec chia sẻ, không ít cặp vợ chồng chủ quan, nhận thức kém về sàng lọc thai nhi để rồi sinh ra những đứa trẻ bị dị tật, thiểu năng trí tuệ. Đơn cử như trường hợp chị N.T.T. (sinh năm 1992, tại tỉnh Hải Dương) chỉ vì cho rằng, sức khoẻ của hai vợ chồng đều tốt, nên trong quá trình mang thai đứa con đầu lòng, việc siêu âm thai chủ yếu để theo dõi tim thai, chiều dài, cân nặng, giới tính của thai nhi, mà không làm các xét nghiệm sàng lọc dị tật. Dù kết quả siêu âm đều cho thấy, thai nhi phát triển bình thường, song thật đau lòng, khi đứa con chị T. sinh ra lại mắc phải hội chứng down.
Tương tự, tại Trung tâm Chẩn đoán trước sinh (Bệnh viện Phụ sản trung ương), trung bình mỗi năm thực hiện sàng lọc trước sinh từ 25.000 đến 30.000 trường hợp. Ngoài ra, tại đây cũng tiếp nhận khoảng 25.000 mẫu sàng lọc từ nhiều địa phương trên cả nước gửi về. Kết quả xét nghiệm đã phát hiện từ 3.000 đến 4.000 trường hợp mắc bệnh lý. Trong số 7% trường hợp gặp các hội chứng bất thường về nhiễm sắc thể, có khoảng một nửa bị hội chứng down.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thị Ngọc Lan, Phó Giám đốc Trung tâm Chẩn đoán trước sinh (Bệnh viện Phụ sản trung ương) đã từng gặp trường hợp một cô gái trẻ sau khi xét nghiệm triple test tầm soát dị tật thai nhi cho kết quả, đứa con sinh ra có nguy cơ mắc hội chứng down và được khuyên nên chọc ối chẩn đoán chuyên sâu. Thế nhưng, chồng cô gái không chấp nhận sự thật và cho rằng, mọi người trong gia đình hai bên nội, ngoại đều hoàn toàn bình thường thì con họ không thể bị down. Sau khi đi xét nghiệm ở nhiều nơi đều cho kết quả tương tự, vợ chồng thai phụ đã đồng ý chọc ối và không may thai nhi được xác định bị mắc hội chứng down. Cuối cùng, họ đã quyết định đình chỉ thai nghén.
Ngoài hội chứng down, sàng lọc trước sinh và sơ sinh còn giúp phát hiện hội chứng Edwards (dị tật do thừa nhiễm sắc thể), dị tật ống thần kinh, thiếu men G6PD (trẻ không đủ men này, các tế bào hồng cầu khó hoạt động bình thường), tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh, thalassemia (tan máu bẩm sinh), suy giáp trạng bẩm sinh... Dù vậy, trên thực tế, việc triển khai chương trình sàng lọc chưa đạt hiệu quả cao.
Ông Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho biết, tuy số lượng bà mẹ mang thai đến bệnh viện kiểm tra định kỳ khá cao, nhưng nhiều người chỉ quan tâm đến giới tính thai nhi, chưa mặn mà với việc khám sàng lọc, chẩn đoán dị tật. Mặt khác, thai phụ đi siêu âm, xét nghiệm không đúng thời điểm, nên khó phát hiện các dị tật. Thậm chí, việc lấy máu gót chân ở trẻ sau sinh cũng khó triển khai, do nhiều sản phụ xin xuất viện sớm hoặc lo sợ con bị đau…
Cần sự vào cuộc của cả xã hội
Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe bà mẹ và trẻ em (Bộ Y tế), trung bình mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 1,4 triệu trẻ được sinh ra, trong đó có từ 1,5% đến 2% số trẻ mắc phải các dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, trung bình cả nước mới có khoảng 30% số trẻ em được sàng lọc chẩn đoán trước sinh và sơ sinh. Hiện chỉ có một số thành phố lớn, như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…, tỷ lệ sàng lọc trước sinh và sơ sinh là cao; còn tại các vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, miền núi, nhiều sản phụ chưa quan tâm đến việc sàng lọc trước sinh và sơ sinh.
Tính đến hết tháng 8-2019, tỷ lệ sàng lọc trước sinh trên địa bàn Hà Nội là 83,36% và tỷ lệ sàng lọc sơ sinh là 82,03%. Ông Tạ Quang Huy, Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Hà Nội cho rằng, để có được kết quả này, thời gian qua, thành phố đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đồng thời nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp tham gia quá trình sàng lọc. Việc sàng lọc trước sinh và sơ sinh giờ không chỉ là chuyện cá nhân của mỗi gia đình, mà chính là bước đi lâu dài của ngành Dân số nói riêng và cả xã hội nói chung, vì mục tiêu cải thiện, nâng cao chất lượng giống nòi...
Ông Nguyễn Duy Ánh, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội khuyến cáo, các trường hợp cần chẩn đoán trước sinh, gồm: Phụ nữ mang thai trên 35 tuổi; kết hôn cận huyết; tiền sử gia đình có người bị dị tật bẩm sinh; có tiền sử sinh non, sảy thai, thai lưu chưa rõ nguyên nhân; bị nhiễm bệnh 3 tháng đầu của thai kỳ như: Rubella, cảm cúm, bệnh nội khoa... Ngoài ra, bố hoặc mẹ thường phải làm việc và sinh hoạt trong môi trường độc hại, có nhiều hóa chất. Với phụ nữ khỏe mạnh bình thường, có nguy cơ thấp cũng nên thực hiện siêu âm tầm soát dị tật ở các mốc quan trọng, khi thai 12 tuần, 22 tuần và 32 tuần. Với sàng lọc sơ sinh, sau sinh tối thiểu 24 tiếng, bé sẽ được lấy máu gót chân để xét nghiệm sàng lọc trên 50 chỉ số liên quan tới rối loạn chuyển hóa, tan máu bẩm sinh, đồng thời sàng lọc tim bẩm sinh, kiểm tra các vấn đề về thính lực. (Hà Nội mới, trang 1).
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-3092019
55/63 tỉnh, thành phố đang bị mất cân bằng giới tính khi sinh
Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) cảnh báo, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn đang có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng, hiện 55/63 tỉnh, thành có tỷ số giới tính khi sinh cao trên 108 bé trai/100 bé gái…
Tại Hội nghị "Tập huấn cung cấp thông tin về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh cho các nhà hoạch định chính sách, đại biểu dân cử và đại diện các cơ quan quản lý, Ban, ngành, đoàn thể năm 2019" vừa diễn ra, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình một lần nữa cảnh báo về tính cấp thiết của vấn đề này.
Theo đó, dù đã có rất nhiều giải pháp để kiểm soát song mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn đang có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng. Hiện 55/63 tỉnh, thành của cả nước có tỷ số giới tính khi sinh cao trên 108 bé trai/100 bé gái, tức ở mức mất cân bằng. Tính bình quân cả nước, tỷ số giới tính hiện lên đến 114,8 trẻ trai/100 trẻ gái sinh ra.
Ngay tại Thủ đô Hà Nội, sau nhiều nỗ lực trong công tác dân số, tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh của thành phố đã giảm từ 114,5 trẻ trai/100 trẻ gái năm 2015 xuống còn 112,8 trẻ trai/100 trẻ gái trong 6 tháng đầu năm 2019.
Thế nhưng, ở nhiều vùng ngoại thành, chênh lệch giới tính khi sinh vẫn ở mức báo động, chẳng hạn: huyện Sóc Sơn lên tới 120 trẻ trai/100 trẻ gái, Quốc Oai là 117 trẻ trai/100 trẻ gái, huyện Mỹ Đức 115 trẻ trai/100 trẻ gái…
Ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gđ cho rằng, nếu không có những biện pháp can thiệp kịp thời, dự tính đến năm 2050, Việt Nam sẽ phải đối mặt với viễn cảnh thiếu từ 2,3 đến 4,3 triệu phụ nữ, đồng nghĩa với việc sẽ phải "nhập khẩu" cô dâu.
Về giải pháp, ông Nguyễn Doãn Tú nhấn mạnh, then chốt vẫn là phải tăng cường công tác bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ, trẻ em gái, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động thay đổi nhận thức của con người, phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong xã hội, vận động nam giới tham gia bình đẳng giới. (An ninh Thủ đô, trang 7).
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-3092019
Kết nối liên thông 6 thủ tục hành chính về an toàn thực phẩm và môi trường y tế
Theo Cục Công nghệ thông tin (Bộ Y tế), thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN (ASW), thời gian qua, với sự hỗ trợ của Tổng cục Hải quan, Bộ Y tế đã xây dựng, hoàn thiện phần mềm dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 để kết nối liên thông với cổng thông tin một cửa quốc gia đối với 6 thủ tục hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và môi trường y tế.
Trong đó, 2 thủ tục thuộc Cục An toàn thực phẩm chủ trì, gồm: Kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm đối với thực phẩm nhập khẩu theo phương thức kiểm tra thông thường; kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm đối với thực phẩm nhập khẩu theo phương thức kiểm tra chặt.
Bốn thủ tục thuộc Cục Quản lý môi trường y tế chủ trì, gồm: Cấp phép nhập khẩu chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế nhập khẩu để nghiên cứu; cấp phép nhập khẩu chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế nhập khẩu phục vụ mục đích viện trợ; cấp phép nhập khẩu chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế nhập khẩu là quà biếu, cho, tặng; cấp phép nhập khẩu chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế nhập khẩu do thị trường không có sản phẩm và phương pháp sử dụng phù hợp.
Sau quá trình vận hành kiểm thử, tập huấn cho cộng đồng doanh nghiệp, Cục Công nghệ thông tin vừa có văn bản đề nghị Tổng cục Hải quan thí điểm thực hiện trên Cơ chế một cửa quốc gia (NSW) với 6 thủ tục mới nêu trên từ ngày 1-10-2019.
Được biết, trong 61 thủ tục của các bộ, ngành phải kết nối NSW trong năm 2019, Bộ Y tế có 24 thủ tục được kết nối trên NSW. (Hà Nội mới, trang 5).
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-2792019
Kỹ thuật mới nuôi cấy phôi trong điều trị vô sinh
Bệnh viện Quốc tế Hạnh Phúc đưa vào ứng dụng kỹ thuật mới trong điều trị hiếm muộn vô sinh, giúp bác sĩ và người mẹ có thể thấy được phôi phát triển.
Chiều 26.9, Bệnh viện Quốc tế Hạnh Phúc công bố về việc bệnh viện ứng dụng nuôi cấy phôi Time - lapse trong hỗ trợ sinh sản, giúp chất lượng phôi (trứng gặp tinh trùng tạo thành phôi) đạt được tốt hơn trước khi chọn lựa phôi đưa vào buồng tử cung làm tổ.
Theo bác sĩ Huỳnh Thị Thu Thảo - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản của bệnh viện này, việc nuôi cấy phôi là một khâu quan trọng có tính quyết định thành công của thụ tinh trong ống nghiệm. Trứng sau khi được thụ tinh và phát triển thành phôi (ở môi trường bên ngoài tử cung) được nuôi cấy đến ngày chuyển phôi vào tử cung.
Sự phát triển công nghệ của tủ nuôi cấy phôi trên thế giới đã có nhiều cải tiến, và mới nhất là tủ nuôi cấy nhiều ngăn tích hợp hệ thống kính hiển vi soi ngược và camera (Time - lapse). Với Time - lapse, mỗi phôi được nuôi cấy riêng, được camera ghi hình ảnh phôi ở các giai đoạn phân chia, chuyền hình ảnh qua máy tính, giúp bác sĩ đánh giá chất lượng phôi mà không cần lấy phôi ra ngoài quan sát như trước đây; giúp người mẹ cũng thấy được giai đoạn ban đầu của đứa con mình. Tại bệnh viện còn có phần mềm trí tuệ nhân tạo giúp đánh giá phôi nhanh và khách quan hơn.
Nữ chuyên gia về y sinh đến từ Đức - thạc sĩ Susanna Brandi, cho biết đây là công nghệ nuôi cấy phôi tiên tiến trong điều trị hiếm muộn vô sinh đang được áp dụng tại châu Âu, Mỹ và các nước phát triển. Nuôi cấy phôi bằng Time - lapse giúp môi trường nuôi cấy ổn định về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng tương thích với môi trường tử cung, cho chất lượng phôi tốt, giúp tỷ lệ điều trị vô sinh cao.
Bác sĩ Võ Thanh Liên Anh - Trưởng khoa Lâm sàng Trung tâm Hỗ trợ sinh sản (Bệnh viện Quốc tế Hạnh Phúc), cho biết tâm lý, tinh thần của người mẹ trước khi làm thụ tinh trong ống nghiệm cũng rất quan trọng, có ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Từ khi Trung tâm đi vào hoạt động (2012), đến cuối 2018, đã có hơn 1.000 em bé ra đời bằng hỗ trợ sinh sản tại đây; với tỷ lệ thành công điều trị hiếm muộn vô sinh hơn 50%. (Thanh niên, trang 4).
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-2792019
Biệt dược điều trị viêm gan C tại Việt Nam đắt gấp 12 lần Ấn Độ: Gia tăng gánh nặng bệnh tật
Thuốc kháng virus trực tiếp điều trị viêm gan C (DAAs) ở Việt Nam hiện cao gấp 12 lần so với Ấn Độ và giá thuốc thấp nhất tại Việt Nam cao gấp 5-15 lần của Quỹ toàn cầu, khiến nhiều người bệnh không có điều kiện chi trả.
Đây là thông tin được đưa ra tại Hội thảo tổng kết Dự án tăng cường chẩn đoán và điều trị viêm gan virus tại Việt Nam do Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương tổ chức tại Hà Nội ngày 24/9.
Giá thuốc cao gấp 5-15 lần
Theo GS.TS Nguyễn Văn Kính, Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, thủ phạm ung thư gan ở Việt Nam là do virus viêm gan B (VGB) và viêm gan C (VGC). Nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ ung thư gan ở Việt Nam cao là nhiều người chưa biết về tình trạng bệnh; tiếp cận với dịch vụ xét nghiệm và điều trị VGB, VGC còn thấp; chưa chú trọng đến việc theo dõi lâu dài và tuân thủ điều trị cho người bệnh.
Nguyên nhân nữa là bởi giá thuốc điều trị VGC ở Việt Nam rất cao, chưa được BHYT chi trả. Theo GS Nguyễn Văn Kính, hiện chưa có vắc xin dự phòng cho VGC, tuy nhiên VGC có thể được chữa khỏi nhờ các thuốc mới có tác dụng trực tiếp lên virus VGC. Hiện đã có khoảng 50 loại thuốc kháng virus trực tiếp điều trị cho VGC (DAAs) khác nhau và cách phối hợp thuốc khác nhau, tỷ lệ khỏi bệnh đã đạt trên 95%.
Tuy nhiên, giá biệt dược DAAs hiện quá cao, khiến nhiều người bệnh không có điều kiện chi trả.
Theo khảo sát của TS.Nguyễn Khánh Phương, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, so sánh giá biệt dược DAAs thấp nhất tại Việt Nam với giá thuốc generic bán tại Ấn Độ thì giá thuốc tại Việt Nam cao gấp 12 lần và cao hơn một số nước khác trong khu vực. Đặc biệt, trong chương trình “Hỗ trợ điều trị viêm gan C cho 7 quốc gia Châu Á và Châu Phi”, giá thuốc DAAs tại Việt Nam là cao nhất. So sánh với giá thuốc PPM của Quỹ toàn cầu, giá thuốc thấp nhất tại Việt Nam cao gấp 5-15 lần.
Chính vì giá thành quá cao nên người bệnh VGC ở Việt Nam ít có cơ hội tiếp cận điều trị.
Ung thư gan tăng cao
Viêm gan virus không chỉ báo động ở Việt Nam mà còn là căn bệnh nguy hiểm trên toàn cầu khi nó ảnh hưởng tới hơn 300 triệu người và gây ra 1,34 triệu ca tử vong năm 2015, hầu hết do xơ gan (720.000 ca tử vong) và ung thu gan (470.000 ca tử vong) liên quan đến viêm gan virus B (VGB) và viêm gan virus (VGB).
Theo bà Oriel Fernandes, Phó Giám đốc Chương trình viêm gan toàn cầu, nếu không can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2040 số ca tử vong do viêm gan virus sẽ cao hơn nhiều so với số ca tử vong do HIV, lao và sốt rét.
Tại Việt Nam, ước tính của Bộ Y tế và Tổ chức Y tế thế giới vào tháng 7/2017, có 7,8 triệu người VGB mạn và 1 triệu người có virus VGC. Theo GS.TS Nguyễn Văn Kính, Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, ít nhất có 3,22 triệu người VGB ở nước ta cần phải điều trị và 1,28 triệu người được chẩn đoán, 689 nghìn người đủ tiêu chuẩn điều trị.
Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có gần 44 nghìn người được điều trị. “Đây là khoảng cách xa vời so với thực tế. Có người bị VGB, xơ gan, ung thư gan rồi mới đến cơ sở y tế thăm khám. Nhiều gói xét nghiệm của Bệnh viện Nhiệt đới đến các khu công nghiệp, cứ đưa xét nghiệm VGB, VGC vào là công nhân từ chối không làm vì chi phí xét nghiệm không được doanh nghiệp chi trả” – GS Kính cho biết.
Đây chính là một trong những nguyên nhân mà phần lớn người nhiễm viêm gan virus không biết mình mắc bệnh. Nguy hiểm hơn, hầu hết bệnh nhân tới Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương khám đều ở tình trạng nặng, phần lớn chuyển sang xơ gan và ung thư gan. Đáng lo ngại hơn khi hiện nay mới chỉ có 80 nghìn ca VGC được chẩn đoán và trên 30 nghìn ca đủ điều kiện điều trị nhưng tới nay chỉ có 4.500 ca mắc VGC được điều trị.
Theo GS Kính, nhiều ca VGC chưa biết về bệnh của mình, được chẩn đoán điều trị chủ yếu ở tuyến Trung ương và thành phố lớn. Ước tính có 24 nghìn ca ung thư gan ở khu vực miền Nam và miền Trung. Tỷ lệ mắc mới ung thư gan ở Việt Nam đứng thứ 2 trong khu vực Tây Thái Bình Dương, sau Mông Cổ và thứ 4 so với toàn cầu.
Để viêm gan virus không trở thành gánh nặng bệnh tật cho người bệnh, đặc biệt là những người nhiễm VGC có điều kiện tiếp cận với thuốc DAAs, theo TS Nguyễn Khánh Phương, cần phải gỡ các rào cản, vướng mắc trong cung ứng thuốc DAAs qua BHYT.
Đó là, Bộ Y tế cần ban hành hướng dẫn cụ thể việc tổ chức đấu thầu các thuốc DAAs mới được bổ sung vào Danh mục chi trả BHYT để các địa phương và cơ sở y tế thực hiện. Nên đưa các thuốc DAAs vào Danh mục thuốc đấu thầu tập trung quốc gia và đàm phán giá thuốc giảm giá thuốc cung ứng cho bệnh nhân BHYT. Đồng thời, Bộ Y tế nên xem xét các giải pháp để giá thuốc DAAs bán tại Việt Nam giảm về mức hợp lý. (Công an nhân dân, trang 7).
http://t5g.org.vn/diem-bao-ngay-2792019